Ngoài ý nghĩa là khoảng thời gian trẻ em được vui chơi, Tết
Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc
gia.
Người Việt ăn
Tết Trung thu vào
ngày rằm tháng 8 âm lịch. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày
bánh trái ra sân cúng mặt trăng.
Nhân dịp Tết
Trung thu, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em
thì rước đèn, đi xem múa lân, ca hát các bài hát Trung thu, và vui hưởng bánh kẹo
cùng các thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung thu dưới hình
thức một mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây trong
đêm Trung thu này được gọi là "phá cỗ."
Nguồn gốc Tết Trung thu
Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo
chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng 8 âm lịch.
Trong đêm Trung thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật
đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La
Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên
cung trăng.
Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức
cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha
thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát.
Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo
sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã
cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng 8 lại ra lệnh cho dân
gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí
Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện
kỳ diệu của mình.
Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm
tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.
Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm
tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì
ngày rằm tháng 8 là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà
Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng.
Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở
thành tục lệ. Người Hoa và người Việt đều làm bánh Trung thu để cúng, ăn,
biếu thân bằng quyến thuộc, và đãi khách. Người Hoa và người Việt đều tổ chức
rước đèn trong đêm Trung thu.
Ý nghĩa Tết Trung thu
Tết Trung thu của người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với
Tết Trung thu của người Hoa.
Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng
trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các
con rước đèn.
Cỗ mừng Trung thu gồm bánh Trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các
thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến của
cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng
khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để
cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân
khác.
Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và
để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người
Việt lại đặc biệt tổ chức múa sư tử hay múa lân trong dịp Tết Trung thu.
Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có
những phong tục này.
Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết
Trung thu. Điệu hát Trống Quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình.”
Ngày xưa trai gái dùng điệu hát Trống Quân để hát trong những
đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám.
Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn
bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát
biến thể để hát.
Tết Trung thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh
đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần
Tết Trung thu trở thành Tết trẻ em, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó.
Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ
anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị trách mắng.
Tết Trung thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa
của chăm sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của
thương yêu.